0868.979.156

Hotline bán hàng

Giao hàng Toàn Quốc

Từ 2 đến 5 ngày

Mốc hồng hạt ngô

Shop Vật Tư Nông Nghiệp 3 năm trước 289 lượt xem

Bệnh mốc hồng hại ngô là một trong những bệnh có ý nghĩa kinh tế biểu hiện trên hạt sau thu hoạch, bệnh phổ biến ở tất cả các vùng trồng ngô của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Bệnh có thể xuất hiện và gây hại ngay từ giai đoạn ngô bước vào giai đoạ

    Tên khoa học: Fusarium moniliforme Sheld., Fusarium graminearum Schw

    Bệnh mốc hồng hại ngô là một trong những bệnh có ý nghĩa kinh tế biểu hiện trên hạt sau thu hoạch, bệnh phổ biến ở tất cả các vùng trồng ngô của Việt Nam và nhiều nước trên thế giới. Bệnh có thể xuất hiện và gây hại ngay từ giai đoạn ngô bước vào giai đoạn chín, sau đó bảo tồn ngay trong hạt ngô và tiếp tục phát triển gây hại trong giai đoạn bảo quản và chế biến.

    1. Triệu chứng bệnh mốc hồng hại ngô (bắp)

    - Bệnh mốc hồng hại ngô do nấm Fusarium moniliforme Sheld. Gây ra có triệu chứng đặc trưng trên bắp ngô có từng tròm hạt ngô mất sắc bóng, màu nâu nhạt, trên đó bao phủ một lớp nấm xốp, mịm màu hồng nhạt.

    - Hạt bị bệnh không chắc mẩy, dễ vỡ, dễ long ra khỏi lõi khi va chạm đập mạnh, hạt bị bệnh mốc hỏng, mất sức nảy mầm hoặc nảy mầm rất yếu, mầm mọc ra bị chết ở trong đất khi gieo.

    - Bắp ngô và hạt ngô trong thời kỳ chín và trong thời gian bảo quản có thể bị nhiều loại nấm hại làm hạt mốc hỏng trong đó có bệnh mốc hồng Fusarium moniliforme Sheld. Và mốc đỏ Fusarium gramineaum Schw. Rất phổ biến và gây tổn thất đáng kể, gây độc cho người và gia súc.

    2. Nguyên nhân gây bệnh mốc hồng hại ngô (bắp)

    - Nấm Fusarium moniliforme có tản nấm phát triển, sinh ra hai loại bào tử:

    + Một là bao loại bào tử nhỏ (Microconidi): rất nhiều, có hình trứng, kích thước 4 – 30x1,5 – 2 micrromet, không màu đơn bào (đôi khi có một ngăn ngang) tạo thành chuỗi hoặc trong bọc giả trên cành bào tử phân sinh ngắn.

    + Loại bào tử thứ 2 là bào tử lớn (Macrroconnidi) hình cong lưỡi liềm, đa bào có nhiều ngăn ngang (3 – 5 ngăn ngang), kích thước 20 – 90x2 – 25 Micrromet, không màu.

    + Rất hiếm trường hợp nấm tròn, đường kính 80 – 100Micrromet. Trên tàn dư cây bệnh, áo nắp vào cuối vụ thu hoạch nấm có thể hình thành quả thể có lỗ hình trứng, tròn, màu nâu đậm bên trong có nhiều túi (ascus) và bào tử túi hình bầu dục, có 1 vách ngăn ngang kích thước 10 – 24 x 4 – 9 micrromet.

    + Ở giai đoạn hữu tính này nấm gọi là Gibberella fujikuroi, nguồn bệnh chủ yếu bảo tồn ở dạng sợi nấm sống tiềm sinh trên tàn dư cây ngô, áo bắp và hạt ngô.

    + Nấm F. Graminearum có tản nấm rất phát triển ăn sâu vào bộ phận bị bệnh, khác trên ngô với nấm F. Moniliforme, nấm F. Graminearum thường không sinh ra loại bào tử nhỏ (Microconidi) mà chỉ có bào tử lớn hình bầu dục cong, hình lưỡi liềm cong, nhiều vách ngăn ngang (3 – 6 ngăn), kích thước 25 – 75x 3 – 6 micrromet, tế bào gốc của bào tử có chân rõ rệt. Trên tàn dư cây bệnh, nấm có thể tạo quả thể có lỗ (Perthecium) bên trong chứa nhiều túi và bào tử túi, giai đoạn hữu tính được gọi là Gibberella saubinetii Sacc.

    3. Đặc điểm phát sinh phát triển bệnh mốc hồng hại ngô (bắp)

    - Một dạng bệnh tương tự rất khó phân biệt với triệu chứng bệnh mốc hồng là bệnh mốc đỏ do nấm Fusarium graminearum Schow. Gây ra vào thời kỳ ngô có bắp đến thu hoạch.

    - Thường thì bệnh phát sinh từ đầu chóp bắn bắp lan vào trong toàn bắp bao phủ một lớp nấm màu hồng đậm – đỏ nhạt, áo bắp và hạt bị bệnh có màu đỏ gạch non. Hạt dễ vỡ, bên trong hạt có thể rỗng chứa 1 đám sợi nấm. Nếu bắp bị bệnh sớm thì không hình thành hạt, lõi bị phân hủy.

    - Bệnh thường gây hại mạnh ở giai đoạn ngô có bắp đang chín sữa đến chín sáp và ở giai đoạn sau khi thu hoạch, áo bắp và hạt trên bắp đều có thể bị bệnh hủy hoại nhất là trong điều kiện ẩm độ cao và nhiệt độ cao.

    - Các giống ngô trong thời gian bảo quản thuộc Lào Cai (ngô thường Sa Pa, ngô địa phương), Sơn La (Hát Lót, Cò Nòi), Hà Nội (vùng Đông Anh, Gia Lâm), Hòa Bình (Kỳ Sơn, Tân Lạc, Thị Xã Hòa Bình), Thái Nguyên (Đại học Nông Lâm, TP. Thái Nguyên), Bắc Ninh (Tiêu Du, Yên Phong, Gia Lương), Nam Định (Giao Thủy, Vụ bản, TP. Nam Định), giống ngô lai số 6, ngô nếp đều xuất hiện hai loại nấm này (Ngô Việt Hà và CTV, 2002 – Trung tâm Bệnh cây nhiệt đới).

    4. Biện pháp phòng trừ bệnh mốc hồng hại ngô (bắp)

    - Thu hoạch ngô cần đảm bảo đúng thời gian chín, không thu hoạch muộn.

    - Loại bỏ các bắp hạt bị bệnh trước khi bảo quản. Các bắp ngô và hạt cần sấy, phơi khô kiệt đến độ ẩm cho phép < hoặc bằng 13%, và bảo quản trong nhiệt độ thấp, mát thoáng khí, không ẩm ướt.

    - Thu dọn, và tiêu hủy tàn dư cây sau thu hoạch.

    - Xử lý hạt giống bằng thuốc trừ nấm để chống nấm mốc trong bảo quản và trước khi gieo trồng.

    - Các hạt ngô mốc hồng, mốc đỏ cần loại bỏ không dùng làm giống và sử dụng vì nấm có thể sản sinh ra các độc tố có tác hại cho cơ thể con người như độc tố Fumonisin gây bệnh ung thu vòm họng, gan hoặc độc tố Trichothecen gây nôn mửa, đau đường tiêu hóa,...

     

    Tin Liên Quan

    0 Đánh giá

    Chọn đánh giá của bạn
    Mã xác nhận